Thủ tục tố tụng đối với trẻ em và người chưa thành niên

10/10/2021 - Đăng bởi : Lê Xuân Thủy

Trong những năm qua, cùng với các chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng và tăng cường các chính sách bảo vệ, chăm sóc và thực hiện các quyền của trẻ em. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 xác định một trong những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là hoàn thiện pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Là một đạo luật quan trọng quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hình sự, bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) của Việt Nam bảo vệ quyền trẻ em bằng cách trao cho các em các quyền năng tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời có những quy định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Theo BLTTHS hiện hành, người chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng tham gia quá trình tố tụng hình sự với nhiều tư cách khác nhau như người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo; nhân chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Với mỗi tư cách tham gia tố tụng, các em sẽ có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định. Dù tham gia tố tụng hình sự với tư cách nào thì người chưa thành niên cũng đều được hưởng hai sự bảo vệ: Một là, sự bảo vệ chung như những người tham gia tố tụng khác; hai là, sự bảo vệ đặc biệt dành riêng cho người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em tham gia tố tụng hình sự, xuất phát từ đặc điểm dễ bị tổn thương của đối tượng này. Quá trình áp dụng các quy định của BLTTHS những năm qua đã phát huy hiệu quả đáng kể trong việc phòng, chống tội phạm xâm hại người chưa thành niên; phòng, chống tội phạm ở lứa tuổi chưa thành niên, cũng như trong việc bảo vệ người chưa thành niên và quyền của các em trong quá trình tố tụng. Các chính sách trong tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên cũng đã và đang được làm hài hòa với các văn kiện quốc tế về người chưa thành niên mà Việt Nam là thành viên như công ước quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan, như nghị định thư không bắt buộc của công ước quyền trẻ em về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên…

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng những quy định của BLTTHS trong điều tra, truy tố, xét xử những vụ án có người chưa thành niên tham gia vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc, đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ người chưa thành niên và bảo vệ các quyền của người chưa thành niên trong quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, đối ngoại ở nước ta hiện nay và trước những yêu cầu hội nhập quốc tế theo hướng bảo vệ tốt hơn nữa cho người chưa thành niên trong tư pháp hình sự, BLTTHS đã bộc lộ một số hạn chế nhất định, đòi hỏi cần có sự sửa đổi, bổ sung nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền của người chưa thành niên, đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cũng như thực thi các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.

1/ Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự, thủ tục tố tụng đối với trẻ em và người chưa thành niên:

Theo quy định của BLTTHS 2003, người chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng tham gia quá trình tố tụng hình sự với nhiều tư cách khác nhau tùy từng trường hợp cụ thể mà người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo trong trường hợp các em là chủ thể thực hiện tội phạm; nhân chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Với mỗi tư cách tham gia tố tụng, tương tự như các đối tượng tham gia tố tụng khác, các em sẽ có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định. Dù tham gia tố tụng hình sự với tư cách nào thì người chưa thành niên cũng đều được hưởng sự bảo vệ chung như những người tham gia tố tụng khác, ngoài ra so đặc điểm về thể chất, tâm sinh lý của người chưa thành niên, pháp luật tố tụng hình sự cũng dành sự bảo vệ đặc biệt riêng cho người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em. Vì vậy, bên cạnh một số quy định liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nằm rải rác ở một số điều luật trong BLTTHS (các điều 59, 133, 135, 204, 211), BLTTHS 2003 đã dành một chương riêng (chương XXXII) với 10 điều (các điều từ 301 đến 310) quy định về thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên, trong đó, chủ yếu tập trung những quy định liên quan đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên.

1.1) Một số nguyên tắc tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên:

BLTTHS không có những quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự riêng cho người cho thành niên. Tuy nhiên, thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH năm 2011 (TTLT số 01/2011/TTLT) hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên đã đưa ra một số quy định có tính nguyên tắc về trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, như sau:

- Bảo đảm tuân thủ theo đúng các quy định tại chương XXXII và các quy định khác của BLTTHS không trái với những quy định của chương này.

- Bảo đảm quyền của người chưa thành niên theo quy định của pháp luật được tôn trọng trong suốt quá trình tố tụng. Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên phải phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ.

- Bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên. Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phải được tiến hành trong môi trường thuận tiện cho việc bảo đảm bí mật đời tư và danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên.

- Hạn chế đến mức thấp nhất số lần tiếp xúc giữa người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên với bị can, bị cáo.

- Áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên cũng như người thân thích của họ được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi các quyền ấy bị đe dọa hoặc bị xâm hại.

- Ưu tiên giải quyết nhanh chóng, chính xác, kịp thời các vụ án liên quan đến người chưa thành niên.

- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng cần phân công điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến người chưa thành niên.

- Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra, cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại điều 69 bộ luật hình sự. Đặc biệt cần xem xét việc miễn trách nhiệm hình sự nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 điều 69 bộ luật hình sự, giao họ cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức giám sát, giáo dục nhằm giúp họ tự sửa chữa lỗi lầm và tái hòa nhập cộng đồng.

Có thể xem đây là những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự có sự tham gia của người chưa thành niên, mà các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ để đảm bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên.

1.2) Các quy định liên quan đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên:

Mặc dù tên chương XXXII của BLTTHS là “các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên”, các quy định tại chương này chỉ quy định về thủ tục tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phạm tội, tức là, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên. Các quy định này tập trung vào các nội dung chủ yếu là những yếu tố cần phải xác định rõ trong vụ án người chưa thành niên; vấn đề áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo chưa thành niên; việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can; xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên; vấn đề bảo đảm quyền bào chữa và bảo vệ quyền của bị can, bị cáo chưa thành niên; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong vụ án người chưa thành niên; vấn đề thi hành án; vấn đề xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội.

1.2.1. Về những yếu tố cần phải xác định rõ trong vụ án người chưa thành niên: Để giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định một cách chính xác ý thức, động cơ phạm tội, trách nhiệm cũng như lựa chọn hình phạt thích hợp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong từng trường hợp cụ thể, khoản 2 điều 302 BLTTHS quy định ngoài những vấn đề cần chứng minh như đối với các vụ án khác, có 4 vấn đề cần phải được xác định rõ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án người chưa thành niên, bao gồm tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; và nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

1.2.2. Về vấn đề áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo chưa thành niên:  Điều 303 BLTTHS quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng chỉ có thể áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với các em từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì chỉ có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn này trong trường hợp các em phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp này cơ bản vẫn tuân theo các quy định chung về căn cứ, thẩm quyền áp dụng theo quy định của BLTTHS. Bên cạnh đó, điều 304 BLTTHS quy định một biện pháp đặc biệt chỉ áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội đó là biện pháp "giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội".

Ngoài ra, nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên, hạn chế việc bắt tạm giữ, tạm giam các em, TTLT số 01/2011/TTLT quy định trước khi áp dụng biện pháp ngăn chặn quy định tại điều 303 cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác quy định tại các điều 91, 92 và 93 BLTTHS. Đối với người chưa thành niên đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra và khi xét thấy không còn cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn đó thì kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do đối với họ. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế việc gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm giam. Người chưa thành niên phải được tạm giữ, tạm giam riêng, không được giam giữ chung với người đã thành niên. Khi xét thấy người chưa thành niên phạm tội có biểu hiện hoang mang, lo lắng có thể manh động dẫn đến hành vi tiêu cực thì cơ quan điều tra yêu cầu cơ sở giam giữ áp dụng các biện pháp phù hợp để tránh hậu quả xấu có thể xảy ra.

1.2.3. Về việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên:

Việc lấy lời khai người bị tạm giữ hoặc hỏi cung bị can là người chưa thành niên tuân thủ theo những quy định chung của BLTTHS, tuy nhiên, do đặc điểm đặc thù của người chưa thành niên, TTLT số 01/2011/TTLT quy định cụ thể hơn việc lấy lời khai đối với người chưa thành niên như sau:

- Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên có thể thực hiện tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Nơi lấy lời khai hoặc hỏi cung cần được bố trí theo cách thức phù hợp để làm giảm bớt sự căng thẳng, sợ hãi của người chưa thành niên.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế đến mức thấp nhất số lần lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên. Điều tra viên, kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên phải có thái độ, hành vi cũng như sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành của họ. Thời gian lấy lời khai, hỏi cung cần được xác định dựa trên độ tuổi, tình trạng tâm lý, sức khỏe cũng như khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành, phát triển của người chưa thành niên và yêu cầu điều tra. Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải được tạm dừng ngay khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.

1.2.4. Về xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên:

Việc một người chưa thành niên đứng trước phiên tòa xét xử sẽ gây tâm lý căng thẳng, sợ sệt cho các em và do vậy ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử. Để giảm bớt và tránh tình trạng này, bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên, BLTTHS và văn bản hướng dẫn có nhiều quy định về phiên tòa xét xử có bị cáo là người chưa thành niên. Điều 307 BLTTHS quy định thành phần hội đồng xét xử phải có một hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong trường hợp cần thiết, tòa án có thể quyết định xét xử kín. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo thì tòa án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp.

Cụ thể vấn đề này, để tạo một phiên tòa xét xử thân thiện với người chưa thành niên hơn nữa, TTLT số 01/2011/TTLT quy định không tiến hành xét xử lưu động vụ án do người chưa thành niên gây ra, trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm, đồng thời khi tiến hành xét xử. Tại phiên tòa, tòa án có thể sắp xếp lại vị trí của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người chưa thành niên phạm tội, không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử tại tòa án, trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý hoặc có việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên tòa. Hơn nữa, tại phiên tòa những lời giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra cần đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho người chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi. Hội đồng xét xử phải cho phép người chưa thành niên bày tỏ ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan điểm, nguyện vọng đó trước khi ra bản án, quyết định.

1.2..5. Về vấn đề bảo đảm quyền bào chữa và bảo vệ quyền của bị can, bị cáo chưa thành niên:

Nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên, điều 305 BLTTHS quy định: Ngoài bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên thì người đại diện hợp pháp của các em cũng có thể thay mặt các em lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa; hơn nữa, đối với vụ án người chưa thành niên thì bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa, nếu các em hoặc người đại diện hợp pháp không lựa chọn được người bào chữa thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

1.2.6. Về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong vụ án người chưa thành niên:

Điều 306 của BLTTHS, theo đó, đại diện của gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án.

Đặc biệt, theo quy định tại điều 306 thì có hai hoạt động tố tụng hình sự bắt buộc phải có sự tham gia của gia đình, nhà trường, tổ chức:

- Việc lấy lời khai, hỏi cung người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra. Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung. Trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên trách, cán bộ trợ giúp, tư vấn về pháp lý, y tế cùng tham gia ðể tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ. Trường hợp đại diện gia đình của người bị tạm giữ, bị can không thể có mặt, để bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng được tiến hành kịp thời theo quy định, thì việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can vẫn được thực hiện nhưng cơ quan tiến hành tố tụng phải mời cán bộ thuộc một trong các cơ quan lao động - thương binh và xã hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên hoặc luật sư tham gia lấy lời khai, hỏi cung. Đại diện gia đình, cán bộ thuộc cơ quan lao động - thương binh và xã hội, đại diện hội phụ nữ, đoàn thanh niên, luật sư có thể được bố trí ngồi cạnh người chưa thành niên để tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ. Nếu thấy cần thiết cho quá trình lấy lời khai, hỏi cung thì có thể cho đại diện gia đình hỏi người bị tạm giữ, hỏi bị can những câu hỏi mang tính chất động viên, thuyết phục, giáo dục.

- Tại phiên tòa xét xử bị cáo chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức. Những người này khi tham gia phiên tòa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của tòa án. Ngoài ra, theo TTLT số 01/2011/TTLT thì  trong trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, tòa án có thể mời đại diện cơ quan lao động - thương binh và xã hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên tòa để hỗ trợ cho họ.

1.2.7. Về vấn đề thi hành án:

Điều 308 BLTTHS quy định khái quát về chế độ chấp hành hình phạt tù đối với người chưa thành niên bị kết án, theo đó, người chưa thành niên bị kết án phải chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp luật quy định. Theo quy định tại điều 309 BLTTHS thì trong quá trình chấp hành hình phạt nếu người chưa thành niên tích cực cải tạo tốt, đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại điều 70 hoặc điều 76 của BLHS thì có thể được giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt cũng như được chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp.

1.2.8. Về vấn đề xoá án tích đối với người chưa thành niên phạm tội:

Điều 310 BLTTHS xác định việc xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ điều kiện quy định tại điều 77 của bộ luật hình sự được tiến hành theo thủ tục chung.

1.3) Các quy định liên quan đến người bị hại chưa thành niên:

Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi phạm tội gây ra, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất. Vì vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung và người bị hại nói riêng là một vấn đề đang được quan tâm. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. Pháp luật tố tụng hình sự, trong đó quy định về địa vị pháp lý của người bị hại là một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại. Người bị hại là người chưa thành niên cũng có các quyền cơ bản như người bị hại là người thành niên trong tố tụng hình sự.

Theo quy định tại khoản 2 điều 51 BLTTHS thì khi tham gia tố tụng, người bị hại, trong đó có người bị hại chưa thành niên có những quyền sau: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của tòa án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.

Điều 7 BLTTHS quy định người bị hại nói chung, trong đó có người bị hại chưa thành niên và người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ.

Ngoài ra, BLTTHS cũng có những quy định bảo vệ đặc biệt đối với người bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự, theo đó, cha, mẹ, người đỡ đầu với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại chưa thành niên được pháp luật trao các quyền năng tố tụng của người bị hại để bảo vệ quyền lợi cho các em. Người bị hại chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của các em cũng có thể nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình. Theo quy định tại TTLT số 01/2011/TTLT thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị hại là người chưa thành niên hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ về quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là người chưa thành niên. Trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại thì theo yêu cầu hoặc đề nghị của họ, cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án cần yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử luật sư hoặc cơ quan, tổ chức có người bị hại là thành viên cử bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền lợi cho họ. Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là người chưa thành niên có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS.

Bên cạnh đó, TTLT số 01/2011/TTLT quy định việc giám hộ và trợ giúp đối với người bị hại là người chưa thành niên. Ngoài các cá nhân tham gia tố tụng với tư cách là người giám hộ, người đại diện hợp pháp, cơ quan tiến hành tố tụng có thể đề nghị đại diện cơ quan lao động - thương binh và xã hội, đại diện hội phụ nữ, đoàn thanh niên ở nơi tiến hành tố tụng hoặc cán bộ hỗ trợ khác trợ giúp cho người bị hại là người chưa thành niên, đặc biệt là những người không có gia đình, lang thang cơ nhỡ, trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em bị buôn bán, đánh tráo, chiếm đoạt khi họ hoặc gia đình họ có yêu cầu hỗ trợ về chỗ ở, tham vấn, chăm sóc y tế, sức khỏe, trợ giúp về mặt pháp lý, tâm lý trong quá trình tố tụng hoặc khi xét thấy cần thiết. Đối với người bị hại là trẻ em không nơi nương tựa, cơ quan tiến hành tố tụng phải đề nghị tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trợ giúp pháp lý cho họ. Cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể đề nghị tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trợ giúp pháp lý cho người bị hại là người chưa thành niên khác. Khi cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị cử cán bộ tham gia tố tụng để hỗ trợ cho người bị hại là người chưa thành niên, cơ quan hoặc tổ chức được đề nghị cần cử ngay cán bộ và thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết để tạo điều kiện cho cán bộ hỗ trợ tiếp xúc, gặp gỡ người bị hại là người chưa thành niên. Cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp và cán bộ hỗ trợ đã nhận trách nhiệm trợ giúp cho người bị hại là người chưa thành niên có thể tham gia trong các giai đoạn tố tụng của vụ án. Trong khi đó, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo cung cấp những thông tin cần thiết về quá trình tố tụng cho người bị hại là người chưa thành niên cũng như cho cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp, cán bộ hỗ trợ của họ; đảm bảo sự có mặt của cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp, cán bộ hỗ trợ để họ có thể hỗ trợ, động viên người bị hại là người chưa thành niên trong suốt quá trình tố tụng cũng như đảm bảo người bị hại là người chưa thành niên, nhất là trẻ em nhận được sự trợ giúp chuyên môn về mặt y tế, sức khỏe, pháp lý, tâm lý phù hợp khi họ cần.

BLTTHS cũng quy định khi triệu tập người bị hại dưới 16 tuổi, giấy triệu tập phải được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của các em (điều 133 khoản 3, điều 137 BLTTHS). Khi lấy lời khai của các em này, phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của các em tham dự (điều 135 khoản 5, điều 137 BLTTHS). Nếu người bị hại chưa thành niên có người bảo vệ quyền lợi thì người này có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của các em (điều 59 khoản 3 BLTTHS). TTLT số 01/2011/TTLT quy định cụ thể hơn về vấn đề lấy lời khai người bị hại và người làm chứng là người chưa thành niên. Theo đó, việc lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên có thể thực hiện tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó, đồng thời nơi lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên cần được bố trí theo cách thức thích hợp để họ cảm thấy an toàn, thoải mái. Điều tra viên, kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành của họ. Khi lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng là trẻ em, cơ quan tiến hành tố tụng phải mời cha mẹ, người đỡ đầu, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy cô giáo của người đó tham dự, theo yêu cầu của người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể mời đại diện cơ quan lao động - thương binh và xã hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia để hỗ trợ cho họ. Việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai người bị hại là người chưa thành niên, bao gồm cả việc kiểm tra dấu vết trên người, chụp ảnh thương tích, ghi âm, ghi hình phải theo đúng quy định của BLTTHS và phải bảo đảm không làm ảnh hưởng tới tâm lý cũng như quyền bí mật thông tin cá nhân và danh dự, nhân phẩm của họ. Mặt khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải hạn chế đến mức thấp nhất việc tiến hành đối chất giữa người bị hại là người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em với bị can, bị cáo để không làm tổn thương tâm lý, tinh thần của họ. Ngoài ra, TTLT số 01/2011/TTLT cũng quy định đối với các vụ án xâm phạm tình dục, hành hạ, mua bán, chiếm đoạt trẻ em thì chỉ tiến hành đối chất khi thấy việc đó là cần thiết để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án mà nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.

Vấn đề bảo vệ nhân chứng và nạn nhân nói chung cũng như nạn nhân, nhân chứng chưa thành niên nói riêng trong vụ án hình sự đã được ghi nhận trong BLTTHS năm 2003 (điều 7 và khoản 3 điều 55).

Để góp phần giữ bí mật đời tư cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là các nạn nhân chưa thành niên, điều 18 BLTTHS đã quy định: “trong trường hợp đặc biệt ... để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì tòa án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.

1.4) Các quy định liên quan đến người làm chứng chưa thành niên:

BLTTHS có những quy định nhằm bảo vệ người làm chứng, trong đó có người làm chứng chưa thành niên và thân nhân của họ. Khoản 1 điều 55 BLTTHS quy định quyền của người làm chứng được yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình.

Ngoài ra, với tư cách là một chủ thể tham gia tố tụng, người làm chứng còn có quyền khiếu nại các quyết định hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xâm phạm những lợi ích của mình (điểm b khoản 3 điều 55 BLTTHS).

BLTTHS cũng có những quy định bảo vệ đặc biệt đối với người làm chứng chưa thành niên, theo đó, khi triệu tập người làm chứng dưới 16 tuổi, giấy triệu tập phải được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của các em (khoản 3 điều 133 BLTTHS); khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi, phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo của các em tham dự (khoản 5 điều 135 BLTTHS); tại phiên tòa, người làm chứng chưa thành niên không phải cam đoan về việc không khai gian dối (điều 204 BLTTHS). Đồng thời, khoản 3 điều 211 BLTTHS cũng cho phép chủ tọa phiên tòa yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy, cô giáo giúp đỡ để hỏi trong trường hợp cần thiết.

1.5) Các quy định liên quan đến nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chưa thành niên:

BLTTHS hiện hành chưa có quy định riêng nào để bảo vệ đặc biệt quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên tham gia tố tụng hình sự với tư cách là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, ngoại trừ quy định về người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Người chưa thành niên là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình và người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn dân sự hoặc bị đơn dân sự chưa thành niên có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của tòa án có liên quan đến quyền lợi của người mà mình bảo vệ, ngoài những quyền năng chung khác được quy định tại BLTTHS.

1.6) Các quy định liên quan đến người chưa thành niên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Theo quy định của BLTTHS thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nói chung và người chưa thành niên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nói riêng cũng có các quyền năng tố tụng để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, bao gồm đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến để tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; kháng cáo phần bản án, quyết định của tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đối với người chưa thành niên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì người đại diện hợp pháp sẽ thay mặt các em thực hiện các quyền năng này (điều 54 khoản 1 BLTTHS). Người chưa thành niên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng có thể nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình.

2/ Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên:

Có thể thấy, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã dành một số quy định riêng để quy định trình tự, thủ tục tố tụng đối với các vụ án có người chưa thành niên tham gia. Đặc biệt, TTLT số 01/2011/TTLT có nhiều quy định rất tiến bộ và thiết thực trong bảo vệ người chưa thành niên, bảo vệ quyền của các em trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên cho thấy, Việt Nam chưa có hệ thống tố tụng hình sự thân thiện với người chưa thành niên theo các chuẩn mực quốc tế, BLTTHS chưa quy định hệ thống tố tụng áp dụng riêng đối với người chưa thành niên, quy trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng hầu như không có gì khác so với trình tự, thủ tục tố tụng chung. Hơn nữa, các quy định hiện hành của BLTTHS cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục nhằm góp phần bảo vệ tốt hơn, có hiệu quả hơn quyền của người chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng trong vụ án hình sự. Cụ thể:

- Thứ nhất, BLTTHS hiện hành không quy định trình tự thủ tục tố tụng hình sự riêng biệt áp dụng đối với các vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng. Quy trình điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án liên quan đến người chưa thành niên được tiến hành như quy trình áp dụng đối với người thành niên. Việt Nam cũng không có hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan xét xử dành riêng cho người chưa thành niên, đồng thời, việc xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật chủ yếu dựa vào hệ thống tư pháp chính thức.

- Thứ hai, BLTTHS chưa ghi nhận những nguyên tắc tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên như bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em, bảo vệ quyền riêng tư, không phân biệt đối xử, cũng như về quyền sống còn, phát triển, và quyền được lắng nghe của người chưa thành niên. Mặc dù một số nguyên tắc đã được ghi nhận tại TTLT số 01/2011/TTLT, nhưng theo chúng tôi, các nguyên tắc này cần được luật hóa thành những nguyên tắc chung có giá trị pháp lý cao.

- Thứ ba, mặc dù BLTTHS có dành riêng 1 chương riêng để quy định về thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên, nhưng nhìn chung, các quy định trong chương này chỉ đề cập đến các vấn đề liên quan đến bị can, bị cáo chưa thành niên và hầu như bỏ ngỏ các vấn đề đối với đối tượng người chưa thành niên là người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự... Nói cách khác, các quy định đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự chưa mang tính hệ thống, tổng thể. Một số qui định trong BLTTHS năm 2003 còn mang tính hình thức như qui định về việc bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hay việc tham gia của gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội; nhiều  vấn đề liên quan đến người chưa thành niên trong hoạt động tố tụng không được qui định trong BLTTHS quyền và nghĩa vụ của người đại diện hợp pháp; một số qui định về áp dụng biện pháp ngăn chặn, về xét xử đối với người chưa thành niên vẫn còn nhiều hạn chế, thời hạn tạm giam còn kéo dài, môi trường điều tra, xét xử còn nhiều bất cập... Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các quyền của người chưa thành niên cũng như trong việc bảo vệ người chưa thành niên tránh khỏi những tác động tiêu cực do quá trình tố tụng hình sự đem lại.

- Thứ tư, BLTTHS hiện hành chưa có quy định riêng nào liên quan đến người chưa thành niên là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, ngoại trừ quy định về người bảo vệ quyền lợi của đương sự (điều 59). Một số nội dung liên quan đến người bị hại, người làm chứng chưa thành niên lại được quy định rải rác ở các chương trong BLTTHS (các điều 133, 135, 137, 204, 211).

- Thứ năm, bảo vệ bí mật đời tư của người bị hại chưa thành niên, nhất là người bị hại của các tội xâm phạm tình dục, buôn bán người… là vấn đề hết sức quan trọng, nhưng BLTTHS chưa có quy định đặc thù nào để bảo vệ cho người bị hại chưa thành niên. Mặc dù, điều 18 BLTTHS có quy định: “Trong trường hợp đặc biệt ... để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì tòa án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai” và cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của người bị hại chưa thành niên có thể vận dụng điều luật này để yêu cầu tòa án xét xử kín, nhưng đây là một quy định chung và tùy thuộc hoàn toàn vào ý chí của tòa án. Thực tế đã có nhiều địa phương chọn một số vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên để đưa ra xét xử lưu động. Việc chọn hình thức xét xử lưu động đối với những vụ án mà bị cáo là người thành niên sẽ có tác dụng tốt trong tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhưng đôi khi lại có ảnh hưởng tiêu cực đối với bị cáo là người chưa thành niên vì nó sẽ làm cho người chưa thành niên càng thấy mặc cảm tội lỗi trước đám đông người dân tham dự phiên tòa. Việc mở phiên toà xét xử công khai bị cáo là người chưa thành niên ở tại trụ sở của tòa án cũng để lại những dấu ấn tiêu cực khó xóa đối với người chưa thành niên về mặt tâm lý vì phải đối diện với gia đình, bạn bè, thầy cô giáo.

- Thứ sáu, vấn đề bảo vệ nhân chứng và nạn nhân trong vụ án hình sự mới chỉ dừng lại ở một số quy định chung nói chung (điều 7 và khoản 3 điều 55 BLTTHS). BLTTHS năm 2003 chưa có quy định riêng cụ thể nào về việc bảo vệ nhân chứng và nạn nhân là người chưa thành niên là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt trong tố tụng hình sự.

- Thứ bảy, thực tiễn thi hành BLTTHS cho thấy, phần lớn các vụ án nói chung (khoảng 80%) và vụ án người chưa thành niên nói riêng không có sự tham gia của luật sư, người bào chữa; không ít trường hợp đại diện gia đình và nhà trường từ chối tham gia tố tụng khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu; thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án người chưa thành niên thường không bảo đảm... Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều nhưng trong đó đáng chú ý là nguyên nhân do bất cập của các quy định có liên quan của BLTTHS năm 2003.

Từ sự phân tích trên đây, chúng tôi thấy rằng, trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLTTHS liên quan đến thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên theo hướng chương XXXII. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên của BLTTHS năm 2003 cần quy định một cách tập trung thống nhất tất cả các vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên tham gia tố tụng hình sự với nhiều tư cách khác nhau, tức là, chương này phải hàm chứa không chỉ các quy định liên quan đến bị can, bị cáo chưa thành niên mà cả những quy định liên quan đến người chưa thành niên tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Về lâu dài cần nghiên cứu để có hệ thống tố tụng hình sự riêng dành cho người chưa thành niên với trình tự, thủ tục tố tụng đặc biệt trong tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thành lập tòa án người chưa thành niên hoặc phòng xử cho người chưa thành niên để xét xử tất cả các vụ án có liên quan đến người chưa thành niên phạm tội, thành lập các đơn vị chuyên trách trong ngành công an, kiểm sát, tòa án, tổ chức luật sư để làm việc với người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự; tăng cường các nguyên tắc liên quan đến lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Sửa đổi, bổ sung một số quy định của chương XXXII. Cụ thể:

Thứ nhất, cần quy định các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự đó là trong tất cả các hoạt động liên quan đến việc thực thi các quy định của bộ luật và liên quan đến người chưa thành niên chưa đủ 18 tuổi, lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu.

Thứ hai, việc phải cách ly người chưa thành niên ra khỏi xã hội trong một thời gian dù ngắn hay dài để phục vụ cho công tác điều tra sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình học tập của các em cũng như thái độ, nhân cách của các em, do đó cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung điều 303 BLTTHS theo hướng hạn chế hơn nữa việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo chưa thành niên. Ví dụ: Ngoài những căn cứ chung theo quy định của BLTTHS thì việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội còn phải tuân thủ thêm các điều kiện khác như:

- Đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi: Phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nhưng có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội;

- Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi: Phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý, tội nghiêm trọng do cố ý nhưng: a) Có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội; b) Người đó đã bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Thứ ba, cần quy định việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội (điều 304 BLTTHS) là một biện pháp ngăn chặn áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng mà không có nơi cư trú rõ ràng thì có thể áp dụng biện pháp giám sát đối với họ để đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Biện pháp giám sát này nên được mở rộng về đối tượng tham gia giám sát người chưa thành niên, không chỉ có cha mẹ, người đỡ đầu của họ mà ngay cả người thân thích, các tổ chức xã hội cũng cần tham gia vào hoạt động này. Từ đó tiến đến chúng ta cần xây dựng một cơ quan chuyên trách để giúp đỡ, giám sát người chưa thành niên kể cả trường hợp họ đang là người bị buộc tội trong các vụ án hình sự hoặc là người đã chấp hành xong bản án.

Thứ tư, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung điều 305 BLTTHS theo hướng bảo đảm sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong vụ án người chưa thành niên. Ngoài việc đề cao trách nhiệm tham gia tố tụng của người bào chữa thì nên nghiên cứu khả năng hạn chế bớt quyền từ chối người bào chữa trong trường hợp này theo hướng đối với người bào chữa được chỉ định thì bị can, bị cáo chỉ được yêu cầu thay đổi hoặc từ chối tối đa là 2 lần, nghĩa là, họ không được quyền thay đổi hoặc từ chối người bào chữa thứ ba được chỉ định. Có như vậy thì quy định về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong vụ án mới có ý nghĩa và mới tránh được khả năng kéo dài vụ án do người bào chữa bị thay đổi nhiều lần.

Thứ năm, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung điều 306 BLTTHS theo hướng xác định rõ trách nhiệm tham gia tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và tổ chức khác, nhất là trong các hoạt động hỏi cung, lấy lời khai người chưa thành niên, tham gia phiên tòa.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung điều 307 BLTTHS theo hướng quy định rõ những trường hợp cụ thể tòa phải xử kín đối với các vụ án người chưa thành niên và đối với vụ án mà người chưa thành niên là người bị hại, nhất là những vụ án về xâm phạm tình dục, buôn bán người, mại dâm, v.v.. Ví dụ: Trong trường hợp việc xét xử công khai có thể làm lan truyền rộng rãi thông tin về sự việc các em bị xâm hại, nhất là bị xâm hại về tình dục; gây cản trở cho quá trình phục hồi của nạn nhân hoặc việc phải ra trước phiên tòa công khai để khai báo về những sự việc hết sức tế nhị và bi thương đã xảy ra có thể gây những tác động bất lợi về mặt tâm lý cho các em, v.v...

2.1. Nghiên cứu bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị hại:

Mặc dù, một số vấn đề về người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên đã được quy định trong TTLT số 01/2011/TTLT như đã nên ở trên, chúng tôi thấy rằng, các quy định này cần được luật hóa tại BLTTHS để đảm bảo tính toàn diện, hệ thống và thống nhất về trình tự, thủ tục tố tụng đối với vụ án liên quan đến người chưa thành niên. Theo đó, để bảo vệ quyền lợi của người bị hại là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự, BLTTHS cần quy định các hoạt động tố tụng phải được tiến hành một cách thân thiện và tạo môi trường phù hợp với độ tuổi, khả năng nhận thức và đặc điểm tâm lý của các em. Cụ thể, cần xem xét để quy định một chương riêng về các biện pháp liên quan đến người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên, đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em được xem là mối quan tâm hàng đầu trong tất cả các vấn đề liên quan đến người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên và theo trình tự, thủ tục thân thiện với các em như phòng lấy lời khai, cách lấy lời khai thân thiện với trẻ em; cách bố trí phòng xét xử và tránh tiếp xúc với bị cáo; xây dựng các điều khoản bảo đảm việc bảo vệ an toàn cho người bị hại, người làm chứng chưa thành niên; quy định thủ tục điều tra, xét xử nhằm tránh sự tiếp xúc trực tiếp giữa người chưa thành niên là bị can, bị cáo; việc có mặt của người đại diện hợp pháp, đại diện nhà trường, tổ chức trong các hoạt động tố tụng; những biện pháp hỗ trợ đối với người bị hại, người làm chứng trong quá trình tham gia tố tụng; đối với những người bị hại dưới 14 tuổi, người đại diện hợp pháp có quyền thay mặt người bị hại để tham gia tố tụng tại phiên tòa; trong trường hợp nào thì xét xử kín, trong trường hợp nào cần có người bị hại là người chưa thành niên có mặt tại phiên tòa để bảo đảm danh dự, nhân phẩm của người bị hại; việc bảo vệ danh tính, bí mật đời tư cho các em...

2.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến người làm chứng chưa thành niên tại các điều 133, 135, 204, 211 của BLTTHS và đưa vào chương XXXII BLTTHS.

2.3. Bổ sung quy định về việc bảo vệ đặc biệt đối với nhân chứng và nạn nhân là người chưa thành niên trong vụ án hình sự.

(www.csnd.vn)

Bài cùng chuyên mục
Back to top